|
* Quan điểm của Lục Tổ Huệ Năng về ý nghĩa Tam Bảo:
Điểm lại dòng lịch sử Phật giáo được hình thành vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN (cũng có tài liệu ghi là 544 TCN) tại vùng Bắc Ấn độ gần biên giới Nepal (Tây tạng) cũ, đến thế kỷ 17 trở thành thuộc địa của Đế quốc Anh và hiện nay thuộc lãnh thổ của Nepal, cho nên từ lúc đạo Phật diệt vong (bị quên lãng) tại Ấn độ vào thế kỷ 14, người ta nhầm tưởng rằng Tây tạng là cái nôi của Phật giáo!...Thực ra đạo Phật chỉ bắt đầu được công nhận tại Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8 (tức sau hơn 1300 năm giáo pháp giác ngộ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời). Tuy rằng, Tây tạng ở sát vùng biên giới Bắc Ấn tại nơi Đức Phật đản sinh (Lâm tỳ ni) và khai đạo (Vườn nai) thuở xưa, nhưng do Đạo Bôn (thờ đa thần và ma vương) được chọn là quốc giáo của Tây Tạng bởi truyền thống lịch sử của nước nầy từ lâu đời, cho nên đạo phật với giáo pháp tự tại giải thoát của ngài Cồ Đàm (Đức Phật Thích ca Mâu Ni) không thể nào truyền bá sang Tây Tạng vào thời điểm nầy được. Mãi đến thế kỷ thứ 8 với sự nhận thức tích cực của nhà vua Songtsen Gampo cùng một số trí giả quan lại của triều đình nhận thấy : đạo Phật đang phát triển ở các nước lân cận : Trung Quốc, Afghanistan, Miến điện, Việt nam,…với những tư tưởng minh bạch sáng suốt trong giáo pháp, đồng thời nhận ra sự mê tín dị đoan ngày càng trầm trọng bởi những nghi quỹ huyền bí, đủ thứ bí thuật trấn ếm ,bói toán,…tràn lan khắp triều đình đã khiến cho nhà vua Songtsen Gampo và những tầng lớp trí thức tiên tiến của triều đình và xã hội đồng nhìn lại. Lúc đó, có hai vị cao tăng Ấn Độ là Tịch Hộ và Liên Hoa Sanh sang truyền giáo, hai vị đã khéo léo phối hợp (lồng vào) những huyền thuật của Bà la môn cùng với Bôn giáo trong chương trình giáo hóa, nên mới có thể thuyết phục dần được các tín đồ của Tây Tạng theo tu học ngày càng đông đảo. Chính vì vậy mà sau nầy Phật giáo Tây Tạng mang tính hình thức đa dạng (sử dụng nhiều hình tượng Phật, Bồ tát, Chú ngữ, Hộ pháp, Nghi thức, Ấn thủ, Pháp khí phù trợ,…) trong việc tu tập, chuyển hóa từ tính : đại chúng, bình dị, thực tế, khoa học của Đạo Phật nguyên thủy (chính thống) thành nét đặc thù riêng : tôn tạo thần bản tôn, giáo pháp phức tạp, nội dung huyền bí quá xa thực tế, bí mật,… Phật giáo Tây Tạng tạo dựng tông phái mang tính đặc thù riêng (phối kết từ Bà la môn + Bôn giáo + Phật giáo), gọi là Mật giáo hay Mật tông.
Đối chiếu lại diễn tiến lịch sử hình thành Phật giáo tại Trung Quốc cũng gần giống như ở Tây Tạng vậy, mặc dù ở gần Ấn độ hơn so với Miến điện (Phật giáo được truyền bá vào thời Phật Thích ca còn tại thế) và Việt nam (Phật giáo được truyền bá vào thế kỷ thứ 3 TCN), nhưng tại Trung quốc do Lão Giáo và Khổng Giáo được chọn là quốc giáo của Trung quốc bởi truyền thống lịch sử của nước nầy từ lâu đời, cho nên mãi đến thế kỷ thứ 5 thì Phật giáo mới chính thức được công nhận và bắt đầu phát triển rộng rãi tại Trung quốc, do vị tổ sư thứ 28 (vị tổ cuối cùng) của Phật giáo Ấn độ tên là Bồ đề Đạt ma sang Trung Quốc truyền bá. Cũng tương tự như hai vị Tịch Hộ và Liên Hoa Sanh sang Tây Tạng truyền giáo, Bồ đề Đạt ma đã khéo léo phối hợp (lồng vào) võ đạo (luyện võ để bảo vệ công lý, để hóa giải thù nghịch, để chiến thắng chính mình) với nội dung tu luyện : Tinh-Khí –Thần (tương đồng với Đạo giáo thời bấy giờ), Thân-Khẩu-Ý (tương đồng với nho giáo thời bấy giờ, nhưng với nét đặc thù riêng là dùng liễu ngôn để đốn ngộ, có nghĩa là nhưng ngôn từ dứt khoác, tập kích bất ngờ xoáy thẳng vào trong tâm vấn đề giúp môn sinh đột ngột nhận ra…) và hòa hợp Trí-Tâm-Thể qua công phu quyền thuật (võ đạo) để hoàn thành Chánh Niệm (Thân-Thụ-Tâm-Pháp dung hòa cùng vạn pháp), dần tiến (tinh tấn) thân tâm đạt đến cảnh giới vô thức, vô chiêu quy đồng vạn pháp, tức Chánh Định thành tựu -> tự giác, tự ngộ.Chính giải pháp truyền bá hòa hợp nầy của Bồ đề Đạt ma, chỉ sau thời gian ngắn, chùa Thiếu Lâm đã thu hút rất nhiều tín đồ theo tu học, điều mà trước đó đã từng có những vị sư từ Ấn độ sang Trung quốc để truyền bá, nhưng bất thành…Phật giáo kể từ đó – từ thời Bồ đề Đạt ma - được chính thức lưu truyền ngày càng rộng rãi tại Trung quốc cho đến ngày nay.
Chúng ta hãy cùng phân tích sơ bộ trở lại việc hình thành Đạo Phật tại Ấn độ, làm cơ sở dẫn luận đối với những nội dung bị sai lệch (dị biệt) so với giáo pháp nguyên thủy.. Đạo Phật bắt đầu được truyền bá tại Ấn độ do Thái tử Siddhārtha Gautama (Sĩ đạt ta Cồ Đàm), dịch theo Hán Việt là Tất Đạt Đa (mọi việc đều thành đạt) giảng giải (thuyết giảng) cách đây hơn 25000 năm sau khi ông thành tựu (chứng đắc) Giác ngộ, và ông chọn Phật danh là Xakia Muni (có tài liệu cho rằng do các môn đồ của ngài xưng gọi), Xakia Muni phiên âm việt ngữ là Thích Ca Mâu Ni [Thích Ca : dòng họ kiên định (Nhẫn), Mâu Ni : Trí giả thầm lặng (khiêm tốn)]. Trong giáo pháp chánh yếu của Đức Phật, ngài luôn nhắm thẳng vào ý hướng thiết thực, đó là : Khổ và Diệt Khổ. Ngài thiết tha mong muốn mọi chúng sanh hãy thức tỉnh ra (Giác) để nhận thấy rõ ràng (Ngộ) bản chất thực thụ của vạn vật và hiện tượng (Pháp) đều do nhân duyên cấu thành, cho nên vạn pháp đều luôn bị ràng buộc lẫn nhau, thường xuyên biến dạng (Tướng) dưới nhiều hình thức (Thức) thể hiện bởi hai cấu hợp là Danh (Vô hình) và Sắc (Hữu hình), chúng liên tục chuyển đổi (Sinh, Diệt) liền liền mãi suốt bất chấp mọi quy luật Không-Thời gian, tạo nên hiệu ứng Dukkha (Khổ : Bất tự do, Bất tự tại, Bất toại nguyện). Nếu tĩnh táo, sáng suốt ra (Giác) để nhận biết và thấu hiểu thật rõ ràng (Ngộ) mọi diễn biến (Tướng) của tất cả sự vật hiện tượng (Pháp) đều xuất phát (sinh khởi) từ một Nhất thể (Chân Không) mà hình thành. Quán triệt quy luật tất yếu nầy nhằm giúp ta chỉnh sửa (Tu tập) Thân Tâm đồng thể nhập, tức ta đã thoát khỏi sự ràng buộc và níu kéo của nhân duyên (Tạo Khổ), tức là đã Diệt Khổ. Muốn thành tựu Giác Ngộ => chúng ta cần phải giải đúng bài toán cơ bản : 1 + 2 = 3 <=> [PHÁP] + [TĂNG] = [THÀNH] như đã trình bày ở phần trên, tức là thành tựu Giác Ngộ. Trọng tâm (cốt lõi) của giáo pháp giác ngộ (Phật Pháp) chỉ vậy thôi, thế mà sau khi Đức Phật vừa nhập Niết Bàn đã xãy ra nhiều ý kiến dị biệt, khiến cho Đoàn thể đồng tu (Tăng già) ngày càng bị chia rẽ, phân tán -> quan điểm tu tập giác ngộ cũng theo đó mà sửa đổi (biến tướng) kéo theo -> chia chẻ thành nhiều tông, phái khác nhau cùng những đường lối tu tập giác ngộ cũng khác nhau, tự biện thông (tà kiến biện thông) cho rằng có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn…Họ biện luận dựa theo Đại Nguyện trong tu tập quả vị Bồ tát là : “Pháp môn vô số kể, thệ nguyện tu học” , mà quên tri kiến và tư duy lại cho đúng đắn (Chánh tri kiến và chánh tư duy) rằng : vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh (Chúng sanh vô số kể thệ nguyện độ thành) ở các cõi giới khác, ở những tôn giáo khác. Cho nên các vị tu hạnh Bồ tát cần phải thông hiểu đặc tính, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của chúng sanh nơi cõi giới, cũng như nơi chốn mà mình cần cứu độ. Vì vậy, các vị ấy cần phải tu học thêm (bổ sung thêm) những kiến thức cũng như các pháp môn ngoại đạo hoặc tôn giáo khác, để dựa vào đó mà có cách hóa độ sao cho phù hợp với trình độ và căn cơ của chúng sanh đang được dẫn dắt. Điều nầy được thể hiện rõ ràng trong kinh "Đại Bi Chú” mô tả sự thị hiện pháp tướng của Đức Quan thế Âm Bồ tát vào nhiều cõi giới khác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, người, trời) là nhằm để hòa dẫn thích nghi cùng sự cảnh (hòa pháp) cùng với căn cơ của chúng sanh đặng mà hóa độ cho thích hợp. Một dẫn dụ khác, muốn cứu độ cho người ngoại đạo vô thần, điều tất nhiên trước tiên đó là ta phải tu học thành thạo các lĩnh vực : khoa học tự nhiên, xã hội, triết học, chủ nghĩa duy vật,…rồi tim cách tiếp cận thành công (họ chịu trao đổi), tiếp đến là khéo léo dung hòa tri thức của mình dần dần cùng với đối tượng để mà giúp họ (dẫn dắt họ) nhận ra quy luật Dukkha và giải pháp loại trừ (Diệt Dukkha), hoặc trong tình huống dẫn dắt chúng sanh của một tôn giáo khác, nếu ta không thông hiểu rõ giáo lý của họ đang theo thì lấy cơ sở gì để mà đối chiếu?, để mà phân tích mở rộng nhằm tìm cách dẫn dắt phù hợp theo nhận thức tín ngưỡng (căn cơ) của đối tượng?, thì mới mong giúp họ nhận ra được chân lý giác ngộ. Do đó, chúng ta cần phải hiểu đúng ý nghĩa của câu : “Pháp môn vô số kể, thệ nguyện tu học” như đã phân tích và “Phật Pháp không gì sánh bằng, thệ nguyện viên thành”, và ta cần phân biệt tu học ≠ tu thành. Các vị tu hạnh Bồ tát đều đã hoàn thành quả vị A La Hán nên các ngài đã khai mở được trí tuệ siêu phàm (tuệ giác thông), cho nên việc tu học tám vạn bốn ngàn pháp môn hay nhiều hơn , nhiều hơn nữa,...sẽ chẳng là vấn đề khó khăn để thông hiểu, bởi vì các vị ấy đã đạt thành Ngũ Minh (Nhân minh, Nội Minh, Thanh Minh, Công xảo minh và Y phương Minh). Ngược lại, đối với phàm phu cần nên cẩn trọng bởi tầm nhìn và kiến thức hạn hẹp (Biên Kiến) của mình, mà cứ cố công tìm tòi tu học, thử nghiệm đủ thứ pháp môn nầy nọ, sẽ dễ dàng bị lôi cuốn theo (si) những kiến thức huyển ảo, sai lệch (tà kiến) mà vẫn ngụy biện một cách thông thạo (Tà kiến biện thông). Cuối cùng, họ sẽ dễ bị trả giá bởi những hệ lụy là : suy hóa tâm thức, loạn tâm, đột biến tâm thức. Từ hơn 2500 năm nay, chúng ta hãy cùng đối chiếu lại lịch sử, cùng thử hỏi có giáo pháp nào giúp chúng sanh giải thoát hoàn toàn khỏi gông xiềng Dukkha ngoài giáo pháp Bát Chánh Đạo mà Đức Phật Thích ca Mâu Ni đã chỉ dẫn không?. Thế thì tại sao Tăng già (Đoàn thể tu học giáo lý giác ngộ) không cùng nhau bảo tồn giáo pháp nguyên thuỷ mà lại cố tình chia chẻ, phân ra thành nhiều nhánh, nhiều chi phái,...? -> tính tới nay đã hơn 6 lần kết tập (chỉnh sửa lại) kinh điển!. Phải chăng vì mục đích tôn tạo sự thành đạt cá nhân (Chấp Ngã) và nắm giữ quyền lực, si mê hình thức (Chấp Pháp)?.
- Chấp Pháp -> Bất Kiến [Pháp], tức sẽ không bao giờ nhận ra được thực tướng của vạn vật.
- Chấp Ngã -> Bất Kiến [Tăng], tức sẽ không bao giờ nhận ra được tính đồng thể của vạn vật
Lưu ý : [Pháp] và [Tăng] được ghi trong [...] hàm chứa ý nghĩa thành tựu như đã phân tích ở phần trên, chứ không đơn thuần là hai chữ Pháp và Tăng hiểu theo nghĩa thông thường.
Như vậy, nếu còn sở hữu tánh Chấp Pháp hoặc Chấp Ngã => mệnh đề { 1 + 2 = 3 <=> [PHÁP] + [TĂNG] = [THÀNH] } sẽ không thoả tính tương thích logic, tức không thể đạt thành giác ngộ!.
Dòng lịch sử điểm qua cho thấy, nguyên nhân chính xuất phát từ sự chia rẽ Tăng đoàn chỉ trong thời gian ngắn sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn đã khiến cho đạo Phật tại Ấn độ bị suy hoá dần về nhận thức đúng đắn giáo lý giác ngộ, và bị đồng hoá dần bởi Ấn giáo (Bà la môn giáo) : pha tạp nhiều nghi thức, chế tác nhiều tôn tượng chiêm bái, phân biệt danh xưng, giai cấp trong đoàn thể ngày càng phưc tạp. Ấn giáo tôn thờ 3 ngôi báu [bộ tam thần Brahma (đấng phạm thiên), Vishnu (đấng hủy diệt) và Shiva (đấng tình thương)] cai quản vũ trụ - điều mà thuở xưa Đức Phật đã không công nhận sự tồn tại của một Đấng toàn năng (Đại Ngã) trong thế giới Danh Sắc (Tam Giới), ngài luôn nhấn mạnh tính Đồng Thể bất phân biệt là bản chất thực thụ của muôn loài [“Mọi người chúng ta đều chung cùng một Bản thể. Bản thể ấy không phân biệt nhân và ngã. Tất cả vạn vật đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra. Không có một vật gì có thể tự nó tồn tại độc lập được...] – thế mà sự nhận thức sai lệch quá ư là cơ bản so với giáo lý giác ngộ, đến nỗi trong kinh điển Ấn giáo sau nầy người ta tự bổ sung thêm rằng Phật Thích Ca Mâu Ni chính là hiện thân của thần Vishnu?!..Điều mà khi còn tại thế Đức Phật đã từng nhắc nhở các môn đồ hãy luôn Tri Kiến và Tư Duy một cách đúng đắn (Chánh Tri Kiến và Chánh Tư Duy) trong tu học để tránh bị dẫn dắt vào mê lầm suy hóa một cách đáng tiếc [Này các Kàlàmas, chớ để bị dẫn dắt bởi những lời đồn hay bởi truyền thống, chớ để bị dẫn dắt bởi những lời người khác nói, chớ để bị dẫn dắt bởi những gì ghi lại trong Kinh điển, bởi lý luận hay suy diễn, bởi xét đoán bề ngoài, bởi tán thành một lý thuyết nào đó, bởi lòng tôn trọng "vị Sa môn này là Thầy ta". Mà này các Kàlàmas, khi các vị tự mình biết rõ: "Những pháp này là bất thiện, những pháp này đáng bị khiển trách và bất lợi". Lúc ấy các vị hãy từ bỏ chúng... "Và này các Kàlàmas, khi nào các vị tự mình biết rõ: “Những pháp này là thiện, những pháp này là không lỗi và có lợi”, lúc ấy các vị hãy tiếp nhận và an trú trong pháp đó".].. Xuất phát từ thủ kiến Tam Báu (3 ngôi báu) của Ấn giáo đã giới hạn (biên kiến) dần ý nghĩa sâu sắc về Tam Bảo trong Phật học nguyên thủy (chính thống) của Đức Phật đã thuyết giảng, hiểu nhầm điều căn bản nầy khiến cho người tu tập theo Phật giáo biến tướng sẽ bị vướng kẹt suốt trong quảng hành trình tu tập tiến hóa, di căn qua nhiều đời kiếp…Bởi vì, rõ ràng là mình đã tự trói mình ngay từ lúc sơ cơ ban đầu bởi cái kiềng 3 chân Tam Báu cùng với những nghi thức tuyên thệ nầy nọ…hoàn toàn trái ngược lại giáo lý giải thoát mà Đức Phật đã chỉ :
[Hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, hãy lấy chính mình làm nơi nương tựa, không nương tựa vào ai khác, hãy lấy Phật Pháp làm hòn đảo, lấy Phật Pháp làm nơi nương tựa, không ai khác có thể làm nơi nương tựa cho mình].
[”Chẳng phải chúng sanh thỉnh Phật nói pháp, chính Phật vì thương chúng sanh mà làm bạn không thỉnh”]
["Này quí thầy! Đối với những pháp môn Như Lai đã dạy, quí thầy hãy ghi nhớ lấy, đừng để cho quên mất! Như Lai cũng như ông thầy thuốc, chẩn bệnh và cho thuốc, còn uống thuốc hay không là do người bệnh; Như Lai cũng như người chỉ đường, chỉ rõ con đường đúng, còn đi hay không đi thì không phải là do lỗi của người chỉ đường. Này quí thầy! Những giáo pháp về Bốn sự thật, Mười hai nhân duyên v.v... mà Như Lai đã đạy, đều là những chân lí mà Như Lai đã chứng ngộ, là cây đèn sáng của thế gian, là chiếc thuyền từ trên biển khổ. Những người đã hiểu rõ và tin tưởng vào chúng thì chúng chính là cánh cửa đưa họ vào đường giải thoát. Giờ đây Như Lai sắp nhập niết bàn, đối với các giáo pháp ấy, nếu ai còn chỗ nào nghi ngờ thì hãy nên bày tỏ ra ngay để Như Lai giảng giải lại".].
Thật là rõ ràng , thật là bình dị, hoàn toàn không có một chút gì gọi là tôn tạo huyển ảo hay cao siêu trong giáo pháp của ngài cả [Điều mà Như Lai biết tựa như lá trong rừng kia, điều mà Như Lai cần nói như lá trong nắm tay nầy, đó là Khổ và Diêt Khổ]. Đức Phật luôn mong rằng [Chúng sanh vô số kể, thệ nguyện độ thành] mọi người hãy hiểu rõ để mà tìm đường đi đúng cho chính mình tránh bị sai đường, lạc lối, giáo pháp của ngài hoàn toàn không áp đặt phải tin, phải theo, phải tán dương Như Lai thì mới được phép gia nhập Tăng Đoàn, mới được thọ chứng!?...Nhận ra điều nầy, Lục tổ Huệ năng – vị tổ cuối cùng được truyền thọ y bát – đã tế nhị hoán chuyển ý nghĩa Tam Bảo như sau :
+ Giác Ξ (Phật): Tu tập hướng về sự giác ngộ.
+ Chánh Ξ (Pháp): Hiểu đúng chánh pháp.
+ Tịnh Ξ (Tăng) : Sự trong sạch (trong đoàn thể phải trong sạch hòa đồng, đoàn kết với mọi người để cùng phát triển)
Lịch sử cho biết Lục Tổ Huệ Năng thành đạo vào khoảng cuối giữa thế kỷ thứ 6, tức sau thời Đức Phật nhập Niết Bàn khoảng 1200 năm. Và trong suốt quảng thời gian nầy, kinh điển phật giáo cũng đã trải qua 5 lần kết tập (chỉnh sửa lại). Với khoảng thời gian lịch sử như vậy, giáo pháp giác ngộ đã từng bị biến tướng rất nhiều lần, đồng thời kèm theo sự bảo trợ của các thế hệ vua chúa của triều đình, đồng thời cũng bởi do họ không đủ căn cơ tu tập quán chiếu tự tại vào bên trong nội tâm như đúng theo giáo pháp nguyên thủy đã chỉ [”Nếu ai tìm ta bằng sắc tướng, cầu ta bằng tiếng tăm,ấy là người làm sai đạo, không thể thấy ta đặng”. “Ta” đó là “Phật”. Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, mà ai thấy được Phật tánh của mình ấy là Phật thiệt."], trong giáo pháp nguyên thủy của đức Phật hoàn toàn không chấp nhận việc tôn thờ ảnh, tượng để tu cầu giác ngộ, sẽ khiến cho mọi người lầm tưởng (mê lầm) rằng đức Phật chính là hình ảnh hoặc bức tượng vô ngã kia (Sắc uẩn Bất Không), mà quên rằng chính Tâm ta vẽ nên và cũng sẽ chính Tâm ta định thành, bởi vậy đối với những đồng tu căn cơ chưa thật vững để làm chủ được giác quan của mình, đức Phật cho phép họ dùng hình tượng bánh xe pháp luân để làm nền tảng (chổ dựa) tạm thời trong bước đầu tu tập soi quán thân tâm. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, các vị kế thừa sử dụng thêm phương tiện quán chiếu là bảo tháp nhỏ chứa Xá lợi của Phật (hạt kết sau khi hoả thiêu), rồi thêm thắt dần thành hình tượng phật nhỏ, càng về sau tôn tạo bảo tháp, sắc tượng ngày càng lớn dần đủ các dạng thức...
.png)
Đối với các bậc vương giả, do họ đã từng quen thuộc với nếp sống cung vàng, điện ngọc, tiếp xúc quá nhiều hình thức mỹ lệ trong thế giới Danh Sắc, cho nên việc tu tập của họ rất khó thể nào tự mình truy quán (quán sát) sâu vào nội tâm để mà tìm thấy chân lý (Tự Tánh, Tánh Không) được, tức là họ cần phải dựa vào các phương tiện ngoại vi (bên ngoài) như : tôn tượng đa sắc + điện thờ lộng lẫy + nghi thức cầu nguyện, chiêm bái phức tạp (có nơi tổ chức bày biện hình thức tương tựa như chốn cung đình)....Mặt khác, dưới sự hổ trợ của các vua chúa, giai cấp quý tộc về việc phát triển đạo phật hình thức pha tạp, ngày càng bị đồng hóa dần bởi các tôn giáo Tín Thần là điều không thể tránh khỏi -> khiến cho ý nghĩa sâu sắc về Tam Bảo hằng tâm bị hiểu nhầm thành Tam Báu cột tâm là điều hiển nhiên. Chính vì vậy mà Lục Tổ Huệ Năng đã phải “tế nhị” diễn giải ý nghĩa Tam Bảo tương đồng Giác-Chánh-Tịnh(Xem thêm) thay cho Phật-Pháp-Tăng như đã nói. (Xem tiếp->) |