|
Chúng ta hãy cùng đối chiếu thêm về quan điểm giải thoát trong giáo pháp của Đạo Jaina (con đường chinh phục, chiến thắng mọi ái dục), việt ngữ gọi là Kỳ na giáo do Đức Mahavira (bậc tối thắng, đại dũng) khai hóa, tên thật của ông là Vardhamana (599 TCN--527 TCN), xuất thân là hoàng tử của bộ lạc Lichavi vùng Đông Bắc Ấn độ, vương quốc Kosala, thuộc đẳng cấp Kshastriya. Hoàng tử Vardhamana khai đạo cùng thời với Thái tử Siddhārtha Gautama (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), người khai hóa đạo Phật. Đạo Phật (con đường Giác Ngộ)và đạo Jain (con đường Chiến Thắng), còn gọi là Phật giáo và Kỳ na giáo, cùng thời ấy được rất nhiều giới theo tu học, nhất là giới trí thức tiến bộ. Giáo pháp của đạo Jaina nguyên thủy (chính thống) hàm chứa một số điểm tương đồng so với giáo pháp của đạo Phật nguyên thủy (chính thống) của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Xakia Muni Buddha). Đó là :
- Tinh thần của mỗi người chính là thực tại tối hậu. Do đó, mỗi người hãy luôn tin tưởng vào chính mình để mà tự tu, tự độ để tự giải thoát
- Không tán thành giáo pháp của của Bà la môn về những nghi thức huyền bí, lễ hội hiến tế thân xác dâng lên đấng thần linh, cũng như sự tế độ can thiệp của thần linh vào nghiệp lực có thể giúp tín đồ tiến hóa trong việc tu tập giải thoát.
- Nhắc nhở các môn đồ cần luôn chú trọng vào sự tự lực vượt qua mọi thử thách (Tin), luôn dùng trí tuệ (Trí) quán xét mình tránh bị mê lầm và đạo đức sống (Đức) để giúp tiêu trừ nghiệp lực. Tin-Trí-Đức, đó chính là 3 điều thiết yếu mà các tín đồ của đạo Jaina luôn hằng tâm trong bước đầu nhập môn và xuyên suốt cuộc hành trình tu học, gọi là Tam Bảo (của đạo Jaina).

Tam Bảo trong Kỳ na giáo (Đạo Jaina) : Tin - Trí - Đức
- Chữ vạn tượng trưng cho sự chuyển hoá. Bốn cánh tay hình chữ vạn tượng trưng cho các Gati bốn (số phận) của các linh hồn thế gian (không giải thoát) gồm : Narakvasi (địa ngục), Triyanch (súc sinh) , Manushya (cõi người) và Dev (cõi trời) đều tồn tại trong vũ trụ vĩnh hằng Madhyalok (vật liệu thế giới), do bởi Karma (nghiệp) khiến cho chúng sanh phải trôi dạt khắp 4 cõi giới đó, linh hồn của thế gian trải qua một chu kỳ liên tục : sinh ra, đau khổ, và chết. Bốn chấm tròn bên trong chữ vạn đại diện cho bốn cột trong Sangh Jain (cộng đồng, đoàn thể của đạo Jain): Sadhus , Sadhvis, Shravaks và Shravikas [nam tu, nữ tu, nam và nữ cư sĩ]. Nó cũng đại diện cho bốn đặc điểm của linh hồn vô hạn kiến thức (Anant Gyan), nhận thức vô hạn (Anant Darshan), hạnh phúc vô hạn (Anant Sukh), và năng lượng vô hạn (Anant Virya). Ngoài ra, 4 chấm bên trong chữ vạn tượng trưng 4 nguyên lý dẫn đến Tuệ giác, đó là : a) Công đức của tôn giáo (dharma) ; b)Thịnh vượng (artha) ; c) An lạc (kāma) ; d) Giải thoát (mokṣa)
- 3 chấm xanh lá bên trên chữ vạn tượng trưng cho Tam Bảo : Tin, Trí, Đức.
- Mặt trăng Crescent và dấu chấm, tức là phần màu vàng của hình ảnh đại diện cho nơi ở của các linh hồn được giải phóng (Siddha - Loka hoặc Siddhashila hoặc Moksha) mà là một khu vực vượt ra ngoài ba cõi (loks). Tựu giả (giải phóng linh hồn bodyless) cư trú trên này mãi mãi, giải phóng từ các chu kỳ của cuộc sống và cái chết.
.png)
Thời bấy giờ (giữa thế kỷ thứ 5 TCN), và cho đến hiện nay giáo pháp của đạo Jaina nguyên thủy được giới trí thức trên thế giới nghiên cứu và phân tích cho thấy những tư tưởng tiến bộ trong sự nhận thức về thế giới quan vật chất (Danh Sắc) hay Sự vật và Hiện tương xung quanh mình, cho rằng tất cả mọi diễn biến của vạn vật đều do sự biến chuyển của Nghiệp (quan điểm tổng quan trong Phật học gọi là Nhân Duyên) mà hình thành, tạo nên sự ràng buộc lẫn nhau khiến cho con người bị vướng kẹt vào cái gọi là Khổ (trạng thái Dukkha). Muốn giải thoát mình ra khỏi sự ràng buộc, để được tự do, thì con người cần phải hành trì khổ hạnh để chiến thắng chính mình, hòng vượt qua mọi chướng nghiệp (hành vi cản trở), không bị nô lệ vào sự trói buộc của các giác quan đối với mình cùng những tác động của ngoại cảnh. Xét lại đạo Phật nguyên thủy (chính thống) do Đức Phật Thích ca Mâu Ni thuyết giảng, hàm chứa những tinh hoa trong việc dẫn hướng (chỉ ra) con đường (Đạo) giải thoát (giác ngộ) thật là khoa học, thật là thực tế đã giúp cho muôn loài (chúng sanh) tự nhận ra bằng lý trí (tri kiến và tư duy), tự mình đối chiếu và suy xét tường tận (quán chiếu) những quy luật tự nhiên (Vô Thường, Vô Ngã, Nhân Quả và Niết Bàn), rồi tự mình tập luyện để chỉnh sửa (tu tập) lại Thân-Tâm sao cho đạt thành Năng lượng Tâm Thức ngày càng tiến triển thật là tinh thông (tinh tấn), tức là khai mở năng lượng tiềm ẩn tự giúp chính mình thoát khỏi (tự giải thoát) sự ràng buộc (Dukkha) của trường năng lượng Sóng-Hạt (thế giới Danh-Săc), để được hoàn toàn thực sự tự do (giải thoát) vĩnh viễn (Như Lai). Thì thử hỏi quan điểm Tam Bảo (3 yếu lĩnh hằng tâm) của đạo Phật (Phật-Pháp-Tăng) so với đạo Jaina (Tin-Trí-Đức) tôn vinh tinh thần kiên định, trí tuệ sắc bén và đạo đức rạng ngời. Chúng ta hãy cùng nhau đối chiếu lại cùng 7 đặc tính mà tôi đã nêu ở mục "Thành tựu quán thông Chánh Pháp", cho thấy con đường dẫn đến giác ngộ (Đạo Phật) trong giáo pháp của Phật học nguyên thủy (chính thống) hàm chứa những ý nghĩa sâu rộng, nội dung tinh túy hơn nhiều so với giáo pháp giải thoát của Đạo Jain (con đường dẫn đến sự chiến thắng ái dục), vì vậy chúng ta có nên hiểu Tam Bảo (Phật-Pháp-Tăng) với cách đơn giản là xét theo hình tướng bề ngoài cầu vọng hay không?, mà quên đi tự tính (phật tính) ẩn chứa bên trong 3 yếu lĩnh (tự tính tam bảo) như đã phân tích ở phần trên, mới có thể giúp ta khai mở đúng Tâm Thức Giác-Chánh-Tịnh theo như nội dung mà Lục tổ Huệ Năng đã dẫn chỉnh lại vào cuối giữa thế kỷ thứ 6. Và đây cũng chính là đề tài giảng giải về "Tri Kiến và Tư Duy trong việc tu tập tiến hoá" do Công ty TOTHA tổ chức ở các khoá học của lớp 2 về "Năng lượng Tâm Thức" hay còn gọi là "Thiền Chuyển TOTHA", nhằm giúp cho mọi người cùng nhau phân tích và đồng nhận ra đúng vấn đề cốt lõi hàm chứa trong tự tính Tam Bảo, qua sự đối chứng khách quan so với giáo pháp nguyên thủy mà Đức Phật đã từng chỉ dạy cho chúng sanh, trải dài suốt hơn 2500 năm qua với bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Mong sao chúng ta đồng nhìn lại, để cùng nhau tiếp nối trọn vẹn cuộc hành trình tìm về cội nguồn thật sự của mình, để không còn đến và không còn đi mãi nữa. Hãy cùng hằng tâm và cùng nhau trở về.
.png)
|