|
.png)
Chính 7 đặc tính vừa nêu trên , cho thấy giáo pháp của Đạo Phật nguyên thuỷ (chính thống) do ngài Cổ Đàm chỉ ra hoàn toàn mang tính Khoa học, rõ ràng, minh bạch, không mang tính cực đoan triết học hay học thuật siêu huyền, thần bí, mê tín, tôn giáo thu phục tín đồ,... Nói đúng hơn, đó là Phật học hay Khoa học Tâm thức. Ta hãy căn cứ (chiếu theo) 7 đặc điểm vừa nêu để phân biệt đâu là Phật pháp chính thống, đâu là Phật pháp biến tướng. Hãy luôn tri kiến và tư duy thật đúng đắn (Chánh Tri kiến và Chánh tư duy), đây chính là 2 hành động thiết yếu tiên khởi của Pháp Lý Bát Chánh Đạo mà Đức Phật thường xuyên nhắc nhở trong việc tu tập tiến hoá nhằm tránh sa vào "Tà kiến biện thông", thật uổng công siêng năng miệt mài tu tập theo mê kiến (hình thức tôn tạo, xảo ngữ diễn thuyết hư cấu, đám đông tuyên truyền,...) để được kết quả “mê tín giáo điều + tự trói buộc lẫn nhau vào ngã pháp chấp thủ…” một cách đáng tiếc...Sau khi thành đạo, Đức Phật có nói rằng đạo phật là con đường giác ngộ, ai tu chứng đắc đều sẽ nhận ra (Ta là Phật đã thành, Chúng sanh là Phật sẽ thành), đó là chân lý của vũ trụ, ngài không phát minh ra đạo phật (con đường giác ngộ), mà chỉ thấy biết rõ ràng (do tâm định --> tuệ khai rồi nhận ra chân lý) và chỉ dẫn lại cho chúng sanh học hỏi theo đó để tự giải thoát (Ai ăn người ấy no, ai tu người ấy chứng) ra khỏi mê lầm giả vọng trong thế giới Danh-Sắc (Sóng-Hạt) không bền vững. Trước Đức Phật Thích ca Mâu Ni đã từng có rất nhiều bậc giác ngộ chứ không riêng gì ngài (trước ngài còn nhiều vị phật khác nữa như : Tỳ là kheo thi khí, Tỳ xá phù, Câu lưu tôn, A na hàm, Ca diếp, Mâu ni...) . Muôn loài đều có quyền bình đẳng để tu tập thành tựu giác ngộ như nhau (Giác là tỉnh ra, sáng suốt ra ; Ngộ là hiểu biết, thấu quán đến tận cùng (Ba La Mật Đa) quy luật của vũ trụ : Vô Thường, Vô Ngã, Nhân Quả, Chân Không Diệu hữu).
- Phải sáng suốt thông hiểu và nhận ra được rằng Pháp hiểu theo nghĩa đối ứng là sự kết nối của ngũ thức (sắc, thanh, hương, vị, xúc) hình thành lục trần tác động vào lục căn ta tạo nên cảm thọ -> ái -> thủ -> hữu -> sanh -> hành -> thức ->...Phải luôn quán xét ta cùng việc tu chỉnh lục căn để đừng bị luyến ái vào lục thức, tu chỉnh tâm thức dần tiến đến sự hòa đồng cùng với tất cả sự vật hiện tượng xung quanh mình (hợp hoà thân, thụ, tâm, pháp). (Xem thêm)
Liễu nghĩa :
Như vậy, với cách hành trì công phu tu tập tinh tấn đến mức thuộc làu đủ thứ kinh kệ + bám chặc (tôn thờ, sùng kính) giáo pháp thay cho việc hiểu đúng nghĩa giáo pháp giác ngộ là chiếc bè, là phương tiện, là bản đồ giúp người tự chống chèo thoát khỏi biển sanh tử , hay là nên công phu tinh tấn đến mức độ thuần thục đủ thứ nghi thức cúng bái, vái, lạy sắc tượng (chấp trước ngã pháp) có giúp ta tự giải thoát mình được không? hay là ta đã tự trói mình ngày càng chặc vào vòng ái lực của Danh-Sắc (Ngũ Uẫn Bất Không) dẫn dắt dần đến mê tín cực đoan, rồi biến tướng dần thành dị đoan sao mà thoát ra đặng!?...Nói chi đến sự thành tựu Quán thông Chánh Pháp như đã phân tích.
* Thành tựu Đoàn thể Phát triển và dung hoà hợp nhất:
Lúc Đức Phật Thích ca Mâu ni còn tại thế, ngài rất chú trọng việc kết nối đoàn thể nhằm giúp cho mọi người nhận ra một cách đúng đắn về chân lý của vũ trụ, đó chính là sự bình đẳng, không phân chia giai cấp lớn nhỏ, tôn tạo hình thức trong tu tập :
“Mọi người chúng ta đều chung cùng một Bản thể. Bản thể ấy không phân biệt nhân và ngã. Tất cả vạn vật đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra. Không có một vật gì có thể tự nó tồn tại độc lập được. Ta và vạn pháp đã nương nhau mà tồn tại thì việc đem lòng từ bi và những ân huệ để bố thí cho chúng sinh, mới xem ra thì có vẻ như là vì người, mà thật ra thì chính ta cũng có được ích lợi lớn lao ...”
”Chẳng phải chúng sanh thỉnh Phật nói pháp, chính Phật vì thương chúng sanh mà làm bạn không thỉnh”
" Với lẽ thật trong vũ trụ, chúng-sanh sanh ra bởi do nhân duyên chuyền níu, chẳng đầu đuôi, cả thảy đều là bố-thí cho nhau, chan sớt chia sẻ cho nhau, đang xin lẫn nhau, mới có cái sống biết, và sống biết tu học. Vì thế mà ai ai cũng đều là Khất sĩ cả, kẻ giác-ngộ trí thức mới thấy ra cái chân lý ấy; mục-đích của chúng-sanh là xin học. kìa chúng-sanh đang xin với cỏ cây, nước, đất, thú, người, Trời, Đất tất cả thảy đều xin cả, xin lẫn nhau, hiểu đến lẽ xin học, thì thấy rõ chân như ngay, vì chúng-sanh xin được học tạm, thì không có cái chi là tham sân si vọng động được cả, không có cái ta cầu ta gì hết, như vậy là sự khổ chết đâu còn có nữa được. Con đường Khất sĩ của chúng-sanh ấy, trong sạch chánh lý lắm, chẳng xấu xa đâu, bởi chúng-sanh vô minh lầm lạc, tưởng phải làm quấy, lấy quấy làm phải, nên hằng ngày lấy cắp ngang giành của nhau, không màng xin hỏi, gây sự bất công đàn áp, tội lỗi chứa chấp riêng mình, càng ngày to lớn quên lãng không hay, nên ngày nay mới khổ chết như cõi đời đây mãi vậy. Khất sĩ là giải thoát trói buộc phiền não vô mình vọng động để sống bằng chơn như trí huệ, an lạc thong thả, rảnh rang, không còn tạo nghiệp, thì luân hồi sanh tử khổ, mới đặng dứt."
Trong đoàn thể (giáo đoàn) Phật giáo lúc bấy giờ gồm có hai nhóm :
- Nhóm xuất gia : Không còn vướng bận vào chuyện gia đình nữa, họ đã hoàn thành trách nhiệm hoặc được sự tán thành của gia đình, họ quyết định thoát ly gia đình đến sinh hoạt và sống chung với nhau trong cùng một nhà (tịnh xá) để thuận bề học hỏi, hổ trợ nhau trong việc tu tập. Đồng thời phải hành trì tinh tấn đạt thành người Tỳ kheo mẫu mực (Tỳ kheo có nghĩa là Khất sĩ hay người ăn xin thông thái), tức là nắm rõ và thực hành đúng " Với lẽ thật trong vũ trụ, chúng-sanh sanh ra bởi do nhân duyên chuyền níu, chẳng đầu đuôi, cả thảy đều là bố-thí cho nhau, chan sớt chia sẻ cho nhau, đang xin lẫn nhau, mới có cái sống biết, và sống biết tu học. Vì thế mà ai ai cũng đều là Khất sĩ cả, kẻ giác-ngộ trí thức mới thấy ra cái chân lý ấy..." , đối đải bình đẳng, truyền giảng đúng giáo pháp (pháp thí) nhằm trả ân tài thí cho chúng sanh bên ngoài cũng như đoàn thể đang tu học tại gia, thì mới tránh được (thoát được) ái lực của nhân duyên tâm chấp ngã, pháp (Nếu các Tỳ kheo hành trì đúng mẫu mực thì thế gian không vắng bóng A la hán) .
- Nhóm tại gia : Còn vướng bận chuyện gia đình, họ vừa lo toan cuộc sống cho gia đình, vừa giúp đở vật chất và phương tiện (cúng dường) cho đoàn thể tu tập (tăng đoàn), nên họ không thể vô trách nhiệm để thoát ly gia đình được. Đây chính là những chúng sanh đáng quý, họ vừa phải đối chọi với những cám cảnh của lục trần cơm –áo-gạo-tiền, vừa thành tâm tu học theo chánh pháp, nếu tinh tấn thành tựu thì chính những con người nầy sẽ đạt quả vị cao nhất. Điều nầy được phản ảnh rất khách quan và rõ ràng qua sự thành tựu quả vị cao nhất trong tăng đoàn của Đức Phật thời bấy giờ gồm có mười vị (Thập Đại Đệ tử) đó là : Ma ha ca diếp, A nan đà, Xá lợi phất, Tu bồ đề, Phú lâu na, Mục kiền liên, Ca chiên diên, A na luật, Ưu ba li và La hầu la. Những vị nầy đã từng kinh trải qua cuộc sống đời thường từ bên ngoài, đã từng phạm giới, có vị gia nhập tăng đoàn tuổi rất cao (Ma ha ca diếp hơn 60 tuổi),..Lịch sử Phật giáo cũng cho thấy rằng những bậc chứng đắc quả vị cao nhất hầu hết đều đã từng trải nghiệm qua đối cảnh của dục trần trước khi bắt đầu bước vào con đường tu tập. Cụ thể, Thái tử Tất đạt đa, ngài cũng đã từng phạm giới (đã từng là kỵ sĩ tài ba, từng có vợ con). Đức vua Vô tránh niệm (sau đắc thành Phật A di đà) cũng đã từng là kỵ sĩ tài ba, từng có vợ con (hai hoàng tử tiền thân của Đại thế chí và Quan thế âm bồ tát), hay bồ tát Long thọ (thụ) cũng từng là thương gia lớn, từng lăn lộn đối chọi với đời sống mãi đến hơn 50 tuổi ông mới tìm cầu giác ngộ, hoặc Đạt ma sư tổ (sơ tổ của Phật giáo Trung quôc), trước kia ông từng là một hoàng tử quyền quý, tướng mạo dữ dằn, một kiếm sĩ kiệt xuất. Quan âm thị kính cũng thế, đã từng có chồng, thương chồng cắt râu dài lúc chồng đang ngủ, bị vu oan ám sát chồng và bị đuổi ra khỏi nhà,...Cuối cùng với năng lực tựu trung của Trí-Tâm hợp nhất đã giúp các vị ấy chứng đắc quả vị cao quý nhất được mọi người tôn vinh mãi đến bây giờ, so với những người từ nhỏ đến lớn nhốt mình trong khung kín sẵn có đầy đủ phương tiện tu tập an cư, nhàn hạ khó thể sánh bằng…Với những tư liệu lịch sử điểm qua, cho chúng ta nhận xét vô cùng thiết thực : “Chứng đắc quả vị cao nhất trong tu tập giác ngô chính là kết quả của sự hàn phục thành công mọi cám cảnh cản trở (vạn pháp) quanh ta, càng trải nghiệm nhiều thì quả vị chứng đắc sẽ càng cao”.
"Hãy ra đi, các tỳ kheo, đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người. đem hạnh phúc cho nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem lại sự tốt đẹp, lợi ích hạnh phúc cho chư Thiên và nhân lọai, Mỗi người hãy đi mỗi ngã. Này hỡi các tỳ kheo, hãy hoằng dương đạo pháp, tòan hảo ở đọan đầu, tòan hảo ở đọan giữa, tòan hảo ở đọan cuối cùng, tòan hảo trong cả hai, tinh thần và văn tự. Hãy công bố đời sống thiêng liêng, cao thượng, vừa tòan thiện, vừa trong sạch. Chính Như Lai cũng phải đi hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc Đại Trí. Hãy truyền dạy giáo pháp cao cả. Hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác. Được vậy là các người đã hoàn tất nhiệm vụ."
”Nếu người tu quên phát tâm Bồ Đề, dẫu tu các pháp lành khác cũng là ma nghiệp”.
“Tu học phật pháp mà xa lánh thế gian để tim cầu chứng thành Bồ tát, chẳng khác nào tìm lông rùa, sừng thỏ”
Đoàn thể tu học theo giáo pháp của Đức Phật lúc ngài còn tại thế có tên gọi Sangha (theo âm phạn ngữ), phỏng (phiên) theo âm hán ngữ là Tăng già. Tổ chức Đoàn thể được hiểu theo tên gọi nhằm phân biệt (≠ phân chia giai cấp) giữa nhóm người xuất gia, nhóm người tại gia, cùng nhóm mới theo tu học cũng như nhóm đã thành đạt tu học pháp lý (≠ thành tựu tu tập ≡ chứng đắc), tên gọi của hai nhóm như sau :
.png)
- Nếu hiểu chữ Tăng theo nghĩa hán tự là sự phát triển đoàn thể (động từ). Lúc còn tại thế, Đức Phật thường xuyên dặn dò mọi người luôn :
+ Giữ gìn sự hòa hợp đoàn thể, tức là bảo vệ chánh pháp, sẽ giúp cho giáo pháp giác ngộ ngày càng phát triển rộng rải khắp đại chúng.
+ Luôn phát triển công phu tu tập (ba la tăng yết đế) của mình ngày càng tinh tấn, tức là bảo vệ chánh pháp, sẽ giúp cho giáo pháp giác ngộ ngày càng phát triển rộng rải khắp đại chúng.
Vì vậy, chữ Tăng nếu được hiểu theo nghĩa hán tự cũng không thể mang ý nghĩa hạn hẹp nhằm dành riêng cho một cá nhân nào đó của đoàn thể tu học theo đạo phật, sẽ vướng phải sự mâu thuẫn so với ý nghĩa cao quý mang tính đại chúng đồng nhất thể mà đức phật đã chỉ rõ [“Mọi người chúng ta đều chung cùng một Bản thể. Bản thể ấy không phân biệt nhân và ngã. Tất cả vạn vật đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra. Không có một vật gì có thể tự nó tồn tại độc lập được. Ta và vạn pháp đã nương nhau mà tồn tại thì việc đem lòng từ bi và những ân huệ để bố thí cho chúng sinh, mới xem ra thì có vẻ như là vì người, mà thật ra thì chính ta cũng có được ích lợi lớn lao ...”]. Chính do sự tắc trách sinh khởi từ bản chất lười biếng, biển thủ danh sắc của con người từng hằng sâu từ nhiều đời kiếp, cùng với sự chi phối của năng lượng đen (ma chướng) hình thành nên mầm mống chia rẽ đoàn thể, ai cũng chấp vào cái ta (chấp ngã) của mình quá lớn, chấp vào hình tướng danh sắc (chấp pháp) xung quanh là có thật, là quan trọng đối với mình, là của mình (Thọ, Ái, Thủ, Hữu) làm nảy sinh (Sanh) nhiều ý kiến bất đồng trong đoàn thể phật giáo [Tăng già), điều nầy đã xãy ra ngay khi Đức Phật vừa nhập Niết Bàn sau một thời gian ngắn -> phân chia nhiều nhánh, nhiều tông phái -> Chánh Pháp ngày càng bị biến tướng dưới nhiều hình thức, vẽ vời theo danh sắc huyển ảo [Tâm như họa sĩ khéo, vẽ thế giới muôn màu, cảnh ngũ ấm thế gian, không pháp nào không tạo] làm lu mờ dần (Lão) ý nghĩa trọng yếu trong pháp giải thoát khỏi Dukkha (tách khỏi ái lực danh sắc ràng buộc) của chân lý giác ngộ mà người khất sĩ vĩ đại ngày ấy (Đức Phật Thích ca mâu ni) đã chỉ dẫn cho tất cả chúng sanh con đường (Đạo) tránh khỏi, trách sao lại tự mình trói buộc mình trở lại vòng kim cô Danh-Sắc đến nỗi không sáng suốt (vô minh) nhận ra mà còn nguỵ biện trôi chảy cho những sai lầm quá ư là cơ bản (tà kiến biện thông), dày công gắng sức tu mãi trong vòng chấp thủ Danh-Sắc chẳng thấy đắc thành, đắm chìm suốt trong biển sinh tử chẳng bao giờ đoạn dứt...Điểm lại sự suy tàn dần sau 4 lần kết tập (chỉnh sửa) kinh điển, cuối cùng vào thế kỷ thứ 14 đã dẫn đến sự diệt vong (Lão Tử) của đạo phật tại Ấn độ, nguyên nhân tất yếu xuất phát từ việc chia rẽ đoàn thể mà ra. May mắn thay, cũng chính nhờ kế thừa thực hiện đúng theo lời dạy của Đức Phật về ý nghĩa Tăng già như đã trình bày ở phần trên, đã giúp đạo Phật phát triển sang nhiều quốc gia trên thế giới, cho nên tránh được sự thất truyền tại Ấn độ vào thế kỷ 14, đúng chính tại nơi quê hương của ngài Cồ đàm (Đức Phật) vĩ đại.
(Xem tiếp)
|